Hành vi của bệnh nhân và các yếu tố chi phối tính tuân thủ điều trị bệnh chóng mặt

Thông điệp chính

• Các yếu tố không tuân thủ có thể được sắp xếp thành năm loại: yếu tố kinh tế xã hội, yếu tố liên quan đến đội ngũ và hệ thống chăm sóc sức khoẻ, yếu tố liên quan đến bệnh tật, yếu tố liên quan đến lĩnh vực trị liệu và yếu tố liên quan đến bệnh nhân.
• Khuynh hướng hành vi của việc không tuân thủ bao gồm cả có chủ đích và không có chủ đích.
• Dù nghiên cứu sâu rộng đến đâu, chưa từng có một kết luận nào được chứng minh là có độ chính xác cao trong việc dự đoán sự tuân thủ của người bệnh.

Tuân thủ điều trị mang lại cơ hội quan trọng để cải thiện kết quả

Đặc điểm bản chất của việc không tuân thủ điều trị bệnh chóng mặt đang là một thách thức về số lượng của tình trạng và điều trị cơ bản liên quan đến bệnh chóng mặt. Hiểu theo cách đơn giản nhất, chóng mặt là do rối loạn tiền đình ngoại biên hoặc trung ương. Các mô hình phổ biến bao gồm chóng mặt kịch phát tư thế lành tính (BPPV) và bệnh Meniere.1 Điều trị những bệnh này thường đòi hỏi các phương pháp tiếp cận phức tạp đó là điều trị y tế kết hợp, các bài tập thể chất đặc thù và trợ giúp tâm lý. Nếu các bệnh cơ bản được chẩn đoán và điều trị chính xác, bệnh chóng mặt thường thuyên giảm, và người bệnh có thể phục hồi trở lại cuộc sống bình thường. Nếu không được điều trị thích hợp, lối sống của người bệnh có thể bị thay đổi đáng kể: người bệnh vẫn sợ đi ra ngoài, ngại thực hiện các công việc hàng ngày, cùng với các lo lắng khác có tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của họ.

Các nguyên nhân phức tạp của không tuân thủ điều trị

Không tuân thủ điều trị là vấn đề khá phức tạp, khiến cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ khó nhận ra khi nào và làm thế nào để can thiệp. Tổ Chức Y Tế Thế Giới chia các yếu tố dẫn đến việc không tuân thủ theo 5 loại: yếu tố kinh tế xã hội, yếu tố liên quan đến đội ngũ và hệ thống chăm sóc sức khoẻ, yếu tố liên quan đến bệnh tật, yếu tố liên quan đến lĩnh vực trị liệu và yếu tố liên quan đến bệnh nhân.2 Bằng cách tiếp cận khác nhau để giải quyết các yếu tố này, các can thiệp gần đây đã chứng minh được hiệu quả của chúng. Những phương pháp này bao gồm thu thập thông tin (cá nhân hoặc nhóm học vấn), các hỗ trợ hành vi (lịch nhắc nhở, hộp chia thuốc, tài liệu hướng dẫn dùng thuốc v.v…) và chiến lược nâng cao nhận thức hỗ trợ xã hội (ví dụ từ gia đình ).12 Mặc dù nghiên cứu sâu rộng được thực hiện bởi các nhà khoa học hành vi và lâm sàng để cụ thể hóa các yếu tố điều hướng tính tuân thủ liên quan người bệnh, nhưng vẫn không đưa ra được mô hình toàn diện và được chấp nhận rộng rãi về hành vi tuân thủ điều trị của bệnh nhân. Do đó, các can thiệp tập trung vào hiệu quả, tiêu chuẩn hoá và độ tin cậy của người bệnh vẫn còn là yếu tố cơ hội cần được xem xét và cải thiệu hiệu quả,4 hiện nay vẫn có các công cụ và phương pháp tiếp cận khác được các bác sĩ sử dụng để tác động để cải thiện sự tuân thủ điều trị của người bệnh.

Không tuân thủ điều trị có chủ đích thường phổ biến hơn không tuân thủ điều trị không có chủ đích (ví dụ: vô tình quên). Không tuân thủ điều trị có chủ đích dựa vào phân tích lợi ích-chi phí, liên quan đến xem nặng rủi ro nhận thấy được so với lợi ích điều trị.

Bệnh nhân không tuân thủ có thể là có chủ đích hoặc không có chủ đích

Các nghiên cứu gần đây đã tìm cách mô tả chính xác hơn các loại hành vi không tuân thủ và các yếu tố động cơ. Nhìn chung, có hai loại hành vi không tuân thủ được xác định:

  • Không tuân thủ điều trị có chủ đích là hành vi có suy xét và phần lớn liên quan đến động cơ của bệnh nhân.4 Người bệnh quyết định không sử dụng thuốc kê đơn có thể là kết quả của sự phân tích lợi ích-chi phí, liên quan đến so sánh các mối quan tâm (chi phí) yêu cầu cho tuân thủ điều trị so với lợi ích của điều trị. Sự phân tích này có thể bị ảnh hưởng bởi niềm tin của người bệnh vào thuốc, động lực bản thân người bệnh và những hiểu biết về căn bệnh đó.3 Thực tế, có nhiều yếu tố tâm lý nhạy cảm hơn, nhưng bệnh nhân gần như thể hiện quyết định của mình theo lý trí (dù thực tế có hay không có như vậy) và đây là thời điểm bác sĩ có thể tương tác với bệnh nhân của mình.
  • Không tuân thủ điều trị không có chủ đích là bị chi phối bởi sự hạn chế về khả năng hoặc nguồn thuốc được sử dụng.4 Nó bao gồm tính hay quên, chế độ trị liệu phức tạp, khó khăn về tài chính hoặc các hạn chế về thể chất.3

Những nguyên nhân dẫn đến hành vi không tuân thủ các liệu pháp điều trị bệnh chóng mặt có thể bao gồm cả có chủ đích và không có chủ đích

Sự phân loại này mang đến một khởi đầu thuận lợi cho sự tương tác với người bệnh về hành vi tuân thủ điều trị của họ. Nhìn chung, không tuân thủ sử dụng thuốc đối với các bệnh mạn tính phần lớn là do có chủ ý, liên quan đến các quyết định có chủ ý sử dụng thuốc khác nhau so với chỉ định.5 Mặc dù thông tin tuân thủ của bệnh chóng mặt còn hạn chế, nhưng việc áp dụng tương tự của tuân thủ với thuốc giảm đau, mức độ tuân thủ là rất thấp và các hành vi giống nhau có thể được xem xét phù hợp với bệnh chóng mặt.7

Bởi vì một đợt chóng mặt có thể khác biệt đáng kể so với một đợt đau, nên nếu đem việc điều trị giảm đau để áp dụng cho điều trị chóng mặt thì không phải là phương pháp hoàn hảo, nhưng có thể có cái nhìn sâu sắc hơn về việc điều trị bằng cách xem xét các báo cáo từ bác sĩ và bệnh nhân. Các vấn đề thường được báo báo liên quan đến bệnh chóng mặt bao gồm các vấn đề tâm lý, chẳng hạn như lo lắng và trầm cảm, với tiên lượng đặc biệt xấu ở những bệnh nhân bị triệu chứng tái phát; điều này có thể liên quan đến nỗi sợ hãi về các cơn chóng mặt khởi phát đột ngột.8 Kinh nghiệm với các chứng bệnh khác cho thấy những bệnh nhân bị rối loạn tâm trạng có thể có tỷ lệ tuân thủ thấp, đặc biệt là đối với hoạt động thể chất.9

Những chia sẻ điển hình của bác sĩ: “Họ (bệnh nhân chóng mặt) không thể lái xe, họ không thể đi bộ và với những người chỉ sống một mình, nếu họ ngã, họ không có ai có thể đến và đưa họ đi”; Các bác sĩ khác còn nhận định sâu sắc hơn: “sự thật là, khi bạn bị chóng mặt, cuộc sống sẽ dừng lại”.10 Thông thường, liệu pháp chỉ định bao gồm luyện tập thường xuyên, chẳng hạn như đi bộ, nhưng hoạt động này có thể khiến người bệnh nản chí khi bị choáng ngợp bởi nỗi sợ hãi bị ngã.11 Vì thế, để giải quyết tình trạng không tuân thủ điều trị, bác sĩ cần trấn an người bệnh, tạo động lực để người bệnh tuân thủ các chỉ định điều trị và nhạy với sự nhận thức về chi phí-lợi ích của người bệnh. Tất cả điều này dễ dàng hơn khi hiểu được quá trình ra quyết định của người bệnh.

Tác dụng của phân tích lợi ích-chi phí của bệnh nhân có thể cải thiện sự không tuân thủ điều trị

Với tính phổ biến của không tuân thủ điều trị ở những người bệnh mắc chứng chóng mặt, quá trình ra quyết định dùng thuốc và tác động của sự phân tích lợi ích-chi phí lên tính không tuân thủ có chủ đích cần được nghiên cứu thêm. Ở những bệnh nhân trầm cảm và chóng mặt, những lợi ích nhận được có thể gần như bằng không, vì vậy có thể không có động lực để tuân thủ. Các giải pháp hiệu quả được cá nhân hoá để cải thiện tính không tuân thủ kết hợp với sự hiểu biết dựa vào khoa học hành vi về cách mọi người kết hợp đánh giá rủi ro vào quá trình ra quyết định của họ có thể mang lại kết quả tốt nhất. Thủ thuật “cú hích” dễ dàng được các bác sĩ ứng dụng và có sự tác động đáng kể đến cách mà bệnh nhân xác định chi phí và lợi ích của việc dùng thuốc theo chỉ định. Các kỹ thuật này sẽ được xem xét ở trong các bài viết tiếp theo.

Tài liệu tham khảo

  1. Eva Kovacs et al. (2019). “Economic burden of vertigo: A systematic review,” Health Economics Review, (9):1 p. 37. https://doi:10.1186/s13561-019-0258-2
  2. Marie T. Brown & Jennifer K. Bussell (2011). “Medication adherence: WHO cares?” Mayo Clinic Proceedings, (86):4, pp. 304–14. https://doi:10.4065/mcp.2010.0575
  3. Bart J.F. van den Bemt, Hanneke E. Zwikker, & Cornelia H.M. van den Ende (2012). “Medication adherence in patients with rheumatoid arthritis: A critical appraisal of the existing literature,” Expert Review of Clinical Immunology, (8):4, pp. 337–351. https://doi: 10.1586/eci.12.23
  4. Gerard Molloy et al. (2014). “Intentional and unintentional non-adherence to medications following an acute coronary syndrome: A longitudinal study,” Journal of Psychosomatic Research, (75):5, pp. 430–432. https://doi:10.1016/j.jpsychores.2014.02.007
  5. Rebecca Meraz (2020). “Medication nonadherence or self-care? Understanding the medication decision-making process and experiences of older adults with heart failure,” Journal of Cardiovascular Nursing, (35):1, pp. 26–34. https://doi:10.1097/JCN.0000000000000616.
  6. Michael Weiser et al. (1998). “Homeopathic vs conventional treatment of vertigo,” JAMA Archives of Otolaryngology–Head & Neck Surgery, (124):8, p. 879. https://doi:10.1001/archotol.124.8.879.
  7. L. Timmerman et al. (2016). “Prevalence and determinants of medication non‐adherence in chronic pain patients: A systematic review,” ACTA Anesthesiologica Scandanvica, (60):4, pp. 416–431. https://doi.10.1111/aas.12697
  8. Claas Lahmann et al. (2015). “Psychiatric comorbidity and psychosocial impairment among patients with vertigo and dizziness,” Journal of Neurology, Neurosurgery, & Psychiatry, (86):3, pp. 302–308. https://doi:10.1136/jnnp-2014-307601
  9. AMA (2015). “8 Reasons patients don’t take their medications,” American Medical Association, 16 October, 2015. https://www.ama-assn.org/delivering-care/patient-support-advocacy/8-reasons-patients-dont-take-their-medications.
  10. Alli Maloney (2017). “Getting diagnosed with a chronic disease with no treatment or cure is like entering a Kafka novel,” Quartz, 20 February, 2017. https://qz.com/909898/getting-diagnosed-with-a-chronic-disease-with-no-treatment-or-cure-is-like-entering-a-kafka-novel/
  11. Ekaterina Pichugina (2018). “Dizziness: What is behind one of the main ailments of the elderly,” MKRU, 12 March, 2018. https://www.mk.ru/social/health/2018/03/12/ golovokruzhenie-chto-stoit-za-odnim-iz-glavnykh-nedugov-pozhilykh.html.
  12. Sunil Kripalani, Xiaomei Yao, & R. Brian Haynes (2007). “Interventions to enhance medication adherence in chronic medical conditions: A systematic review,” JAMA Internal Medicine, (167):6, pp. 540-50. https://doi:10.1001/archinte.167.6.540