Bánh xe thay đổi hành vi: bộ khung cải thiện tính tuân thủ điều trị chóng mặt

Thông điệp chính

  • Các can thiệp được lên kế hoạch để cải thiện việc tuân thủ thuốc điều trị chóng mặt thường được thiết kế mà không có bất kỳ hiểu biết nào về nguyên nhân thúc đẩy hành vi của bệnh nhân; kết quả là chúng chỉ có hiệu quả ở mức độ vừa phải
  • Khung Bánh Xe Thay Đổi Hành Vi (Behavior Change Wheel – BCW) là một mô hình hữu ích để hiểu việc không tuân thủ điều trị chóng mặt
  • BCW nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết các mối quan tâm cụ thể của bệnh nhân liên quan đến vấn đề điều trị của họ và cung cấp thông tin chi tiết về việc cải thiện hiệu quả của các biện pháp can thiệp nhằm vào các bệnh nhân có nguy cơ

Cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân đòi hỏi một bộ khung có thể hiện thực hoá

Những bài trước trong loạt bài này đã khẳng định rằng không tuân thủ thuốc điều trị chóng mặt là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng.1, 2 Vấn đề tuân thủ và tác động của chúng đối với sức khỏe, chi phí và tỷ lệ tử vong ngày càng trầm trọng hơn do điều kiện kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển.3 Không tuân thủ là một vấn đề về hành vi và chúng ta đã thảo luận về một số mô hình giúp hiểu điều gì thúc đẩy việc không tuân thủ và các hành vi khác của bệnh nhân. Nhiều khởi xướng hỗ trợ đã được phát triển nhằm giúp bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính thay đổi hành vi của họ, và nhiều chương trình trong số này đã cho thấy kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều phạm vi đáng chú ý để cải thiện các can thiệp bằng cách kết hợp các khuôn khổ hành vi tốt hơn và mang tính ứng dụng hơn.4,5 Trong khi các khung hành vi tập trung vào việc cải thiện kiến thức bệnh nhân nhằm cung cấp một số nhận thức, thì việc khái niệm hóa vấn đề không hoàn thiện của bệnh nhân có xu hướng dẫn đến các biện pháp can thiệp thể hiện sự thay đổi hành vi hạn chế. Ví dụ, Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe, đã được thảo luận trước đây trong loạt bài này, không đề cập đến các yếu tố hành vi nhất định có thể ảnh hưởng đến sự tuân thủ, chẳng hạn như sự bốc đồng, thói quen và sự tự chủ,5 việc áp dụng Thuyết Hành Vi Hoạch Định đã mang lại thành công lẫn thất bại trong các chương trình hỗ trợ bệnh nhân.

Bánh Xe Thay Đổi Hành Vi (BCW) được phát triển để giải quyết nhu cầu về một bộ khung toàn diện, được xác thực, nhằm đánh giá hành vi, thiết kế các biện pháp can thiệp và đánh giá hiệu quả can thiệp.6 BCW kết hợp nhiều bộ khung khác được thảo luận trong loạt bài này, đó là bộ khung toàn diện và duy nhất, có sẵn cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe mong muốn thực hiện hành động cụ thể để hỗ trợ bệnh nhân của họ.

BCW là một bộ khung hành vi dễ hiểu và khả thi

Được đề xuất vào năm 2011 bởi Susan Michie, Maartje M van Stralen và Robert West, BCW là một khung hành vi toàn diện và dễ hiểu có thể áp dụng cho hầu hết hành vi của con người. Trọng tâm của mô hình linh hoạt này được cấu thành từ ba yếu tố, được biết đến là khung COMB, giải thích hoặc tác động một hành vi sẵn có (B): năng lực, cơ hội và động lực (COM).6

  • Năng lực được hiểu là năng lực tâm lý thể chất của một cá nhân thực hiện một hành vi hay hoạt động cụ thể.7 Ví dụ, một bệnh nhân chóng mặt và bị trầm cảm kèm theo sẽ làm giảm khả năng tâm lý trong việc tuân thủ điều trị.
  • Cơ hội bao gồm những yếu tố bản thânxã hội khách quan có tác động cản trở, kích hoạt hoặc khơi gợi thể hiện hành vi cụ thể ra bên ngoài.7 Ví dụ, bệnh nhân có các triệu chứng chóng mặt có thể không tuân thủ do những yếu tố bản thân và xã hội, chẳng hạn như địa điểm và chi phí điều trị.
  • Động lực kết hợp các quá trình tự động – liên quan đến cảm xúc và xung động – với các quá trình phản xạ suy nghĩ; nó bao gồm thiết lập và đánh giá các kế hoạch.7 Ví dụ, bệnh nhân chóng mặt có thể không tuân thủ điều trị khi không xuất hiện triệu chứng vì thiếu những kích thích tự động thúc đẩy sự tuân thủ. Quá trình kích thích tự động tương ứng với “Hệ thống 1” của Kahneman’s còn quá trình phản xạ có suy nghĩ tương ứng với “Hệ thống 2”.

Mô hình BCW được tạo nên bởi nhiều thành phần. Phần thì liệt kê một số chức năng các phương pháp can thiệp, bao gồm giáo dục và đào tạo – đây cũng là những thành phần phổ biến của hầu hết các can thiệp tuân thủ điều trị. Phần khác bao gồm các chính sách như khuyến cáo và quy định. Các thành phần của mô hình BCW kết hợp để tương tác theo kiểu phi tuyến tính.5 BCW đã được áp dụng thành công trong việc triển khai các biện pháp can thiệp cải thiện sự tuân thủ.

Bánh Xe Thay Đổi Hành Vi cung cấp một cách tiếp cận phân tích, hợp lý, có khả năng hiện thực hóa để hiểu được sự tuân thủ. Các ví dụ được trình bày chứng minh rằng những biện pháp can thiệp hiệu quả cần giải quyết sự hiểu biết và niềm tin của bệnh nhân về tình trạng bệnh cũng như điều trị bệnh của họ.

BCW giúp hiểu biết toàn diện về hành vi tuân thủ

Việc sử dụng định dạng COM-B của BCW để tạo mô hình hành vi* tuân thủ thuốc thể hiện giá trị tiềm năng của bộ khung trong việc mô tả hành vi không tuân thủ. Một nghiên cứu đã xác định các yếu tố khác nhau góp phần vào việc không tuân thủ quản lý đau ở bệnh nhân lớn tuổi; những yếu tố này bao gồm nỗi sợ hãi về các tác dụng phụ và ngại uống thuốc giảm đau.7 Nghiên cứu đã xác định những yếu tố này là một phần của yếu tố tâm lý hạn chế khả năng tuân thủ chế độ điều trị của bệnh nhân. Trong nghiên cứu này, BCW đã chứng minh giá trị của nó và có thể được sử dụng để tạo ra một mô hình tuân thủ toàn diện, hợp lý làm cơ sở cho các can thiệp dựa trên chứng cứ để cải thiện việc tuân thủ liệu pháp điều trị chóng mặt.

Khung BCW là phương pháp tiếp cận đơn giản, toàn diện để cải thiện vấn đề tuân thủ

So với các mô hình hành vi thay thế, BCW cung cấp một cách tiếp cận hợp lý, có thể hiện thực hóa giúp hiểu biết vấn đề không tuân thủ. Nó tạo nên một mô hình tuân thủ chỉ ra cách thức hành vi có thể bị tác động một cách mạnh mẽ nhất. Các ví dụ được trình bày ở trên đây mang tính chất đặc thù, chứng minh rằng những can thiệp tuân thủ hiệu quả sẽ cần phải giải quyết vấn đề hiểu biết và niềm tin của bệnh nhân về tình trạng bệnh cũng như phương pháp điều trị. Mặc dù tài liệu không chỉ ra những hạn chế đáng kể của bộ khung này, sự hiểu biết về các thuyết hành vi thay thế và ứng dụng của chúng vào sự tuân thủ sẽ cung cấp cho chúng ta thêm nhiều thông tin.

Lưu ý: Việc xác thực mô hình hành vi bằng các nguồn bên ngoài không được tìm thấy trong tài liệu.

Tài liệu tham khảo

1. Louisa Murdin, Kiran Hussain, & Anne GM Schilder (2016). “Betahistine for symptoms of vertigo,” Cochrane Database of Systematic Reviews, (6), Article cd010696. https://doi:10.10021/14651858.CD010696.pub2

2. Jessica Tyrrell et al. (2016). “The cost of Meniere’s disease,” Ear and Hearing, (37):3, pp. 202–209. https://doi:10.1097/aud.0000000000000264

3. Tracey-Lea Laba et al. (2013). “Strategies to improve adherence to medications for cardiovascular diseases in socioeconomically disadvantaged populations: A systematic review,” International Journal of Cardiology, (167):6, pp. 2430–2440. https://doi:10.1016/j.ijcard.2013.01.049

4. Bart J.F. van den Bemt, Hanneke E. Zwikker, & Cornelia H.M. van den Ende (2012). “Medication adherence in patients with rheumatoid arthritis: A critical appraisal of the existing literature,” Expert Review of Clinical Immunology, (8):4, pp. 337–351. https://doi: 10.1586/eci.12.23

5. Susan Michie et al. (2011). “The behaviour change wheel: A new method for characterising and designing behaviour change interventions.” Implementation Science, (6):42. https://doi:10.1186/1748-5908-6-42

6. Christina Jackson et al. (2014). “Applying COM-B to medication adherence: a suggested framework for research and interventions,” The European Health Psychologist, (16):1, pp. 7–17. https://atlantishealthcare.com/AtlantisHealthcare/media/pdf/Jackson-et-al-2014.pdf

7. Thekla Brunkert et al. (2020). “A contextual analysis to explore barriers and facilitators of pain management in Swiss nursing homes.” Journal of Nursing Scholarship, (52):1, pp. 14–22. https://doi:10.1111/jnu.12508