Suy nghiệm và tác động của suy nghiệm lên hành vi tuân thủ ở phụ nữ mãn kinh

Có thể bạn chưa biết?

Tâm trí con người có hai hệ thống tư duy: hệ thống 1 tức thì và tự phát, hệ thống 2 có suy xét và ý thức. Hệ thống 1 chi phối các phản xạ tức thì và chịu trách nhiệm cho 95%1 các quyết định và bị chi phối bởi các suy nghiệm (ví dụ: nhận thức vắn tắt), giúp đưa ra quyết định nhanh hơn, đỡ vất vả hơn nhưng cũng dễ dẫn đến sai lầm hơn. Hệ thống 2 đòi hỏi nỗ lực nhận thức2 và ít được sử dụng hơn hệ thống 1. Bài viết này sẽ mô tả một số suy nghiệm có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi của bệnh nhân bao gồm sự tuân thủ.

Con người vẫn đưa ra quyết định ngay cả khi không có đủ thông tin liên quan

Khoa học hành vi đã chứng minh rằng tư duy con người phản ứng với môi trường tốt nhất với ít nỗ lực tinh thần nhất có thể. Hệ thống 1 thực hiện quá trình này, hoạt động một cách tự động và không có bất kỳ nỗ lực nào. Hệ thống 1 đưa ra những phản hồi nhanh chóng nên hữu ích trong trường hợp cần thoát khỏi nguy hiểm ngay. Nhưng trong nhiều trường hợp, những thông tin hiện có là không đủ để đưa ra quyết định hợp lý ngay thời điểm đó. Thậm chí trong trường hợp thông tin liên quan bị hạn chế, hệ thống 1 vẫn đưa ra kết luận, quyết định sử dụng bộ xử lý (proxy) tinh thần dựa trên kinh nghiệm và trải nghiệm trước đó. Những nhận thức vắn tắt hay suy nghiệm này có thể ảnh hưởng đáng kể đến thái độ và hành vi của bệnh nhân, bao gồm sự tuân thủ.

Để nắm rõ hành vi tuân thủ điều trị của bệnh nhân đòi hỏi sự hiểu biết về suy nghiệm nhận thức

Sự hiểu biết về suy nghiệm hoặc nguyên tắc ngón tay cái cho phép bác sĩ hiểu rõ hơn cách người bệnh nhận thức về việc tuân thủ điều trị và cách nhận thức này bị thiên kiến như thế nào. Những suy nghiệm này bao gồm:

  • Hiệu ứng mỏ neo: là xu hướng đưa ra quyết định dựa trên một điểm tham chiếu.3 Hãy xem xét thí nghiệm trên ba nhóm người được hỏi họ sẽ sẵn lòng quyên góp bao nhiêu cho một tổ chức từ thiện với ba câu hỏi khác nhau cho mỗi nhóm:
  • Bạn sẽ quyên góp bao nhiêu cho một tổ chức từ thiện, ví dụ $5?
  • Bạn sẽ quyên góp bao nhiêu cho một tổ chức từ thiện? (không đưa ra số tiền gợi ý)
  • Bạn sẽ quyên góp bao nhiêu cho một tổ chức từ thiện, ví dụ $400?

Nghiên cứu cho thấy người tham gia sẵn sàng quyên góp lần lượt là $20 khi được gợi ý ở mức $5, $64 khi không có gợi ý và $143 khi được gợi ý đến $400.3 Như vậy, những người tham gia bị ảnh hưởng mạnh bởi số tiền gợi ý ban đầu. Suy nghiệm này thường được sử dụng trong đàm phán nhưng cũng có thể được áp dụng dễ dàng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

Một nghiên cứu gần đây về một loại thuốc được tiêm mỗi tháng một lần để điều trị vẩy nến đã sử dụng hiệu mỏ neo trên nhóm can thiệp bằng cách yêu cầu những bệnh nhân trong nhóm này xếp hạng mong muốn được tiêm thuốc “mỗi ngày”; và sau đó, cả hai nhóm chứng và can thiệp cùng được hỏi liệu họ có sẵn sàng tiêm thuốc hàng tháng hay không. Kết quả cho thấy, lượng bệnh nhân được “mắc neo” với mốc tham chiếu tiêm thuốc “mỗi ngày” sẵn sàng bắt đầu điều trị tiêm hàng tháng cao hơn gấp ba lần so với nhóm đối chứng không được “mắc neo”.4

Tư duy này có thể áp dụng cho phụ nữ mãn kinh, nghĩa là bệnh nhân có thể tuân thủ liệu pháp quản lý mãn kinh mới nếu họ được cung cấp thông tin về điều trị tiêu chuẩn như một điểm neo tham chiếu.

Suy nghiệm sẵn có (nổi trội): con người đánh giá xác suất của một kết quả dựa trên mức độ dễ hình dung ra kết quả đó thay vì dựa trên xác suất thực tế của nó.5 Ví dụ, một người gần đây đã nhìn thấy hình ảnh của một trận động đất nào đó sẽ có xu hướng suy diễn thái quá khả năng xảy ra động đất. Suy nghiệm này ngụ ý rằng người đã nhìn thấy hoặc trải nghiệm động đất sẽ quan tâm hơn về việc mua bảo hiểm động đất. Tuy nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa là một khi ký ức về trận động đất biến mất, tác động lên hành vi mua bảo hiểm của họ cũng sẽ biến mất.5 Nguyên tắc tương tự có thể được áp dụng trong sự tuân thủ điều trị mãn kinh: một phụ nữ gần đây có những triệu chứng nghiêm trọng (bốc hoả, đổ mồ hôi, vấn đề về nhận thức) có khả năng tuân thủ điều trị tốt hơn nhưng sự tuân thủ của cô ấy sẽ giảm dần theo thời gian khi các triệu chứng này biến mất.

Một nghiên cứu gần đây trên bệnh nhân HIV cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có mức độ tuân thủ trung bình từ 90% trở lên tăng từ 31,1% lên 48,3% với những bệnh nhân nghe được những phản hồi tích cực (thông tin nổi trội) về thuốc điều trị HIV từ các bệnh nhân khác.6 Đưa ra ví dụ tích cực về những phụ nữ đã điều trị mãn kinh, ưu tiên những trường hợp có hoàn cảnh tương tự người bệnh, có thể giúp tăng tỷ lệ quyết định khởi đầu điều trị của bệnh nhân.

  • Nỗi lo mất mát/sở hữu: con người thường cảm thấy tồi tệ khi mất đi thứ gì đó đang có hơn cảm giác vui sướng khi có được thứ tương tự.7 Ví dụ, mất $100 thường gây đau đớn hơn nhiều so với niềm vui khi được tặng $100. Richard Thaler đưa ra ví dụ về một nhóm sinh viên được chia thành hai nhóm nhỏ: nhóm bán và nhóm mua. Nhóm bán nhận được một chiếc cốc in phù hiệu trường đại học và nhóm mua không được nhận gì cả. Sau đó, từng sinh viên được hỏi với mức giá nào họ sẽ xem xét mua lại (với sinh viên ở nhóm mua không được nhận cốc) hoặc bán đi chiếc cốc (với sinh viên ở nhóm bán đã được nhận cốc). Nhóm bán đã định giá gấp đôi nhóm mua. Như vậy, bác sĩ có thể áp dụng suy nghiệm này trong trường hợp tuân thủ điều trị bằng cách nhấn mạnh rằng mỗi khi dùng thuốc hoặc khi bệnh nhân có hành vi tích cực, chẳng hạn như tập thể dục, họ cải thiện được sức khỏe và nếu từ bỏ những hành vi đó, họ sẽ mất đi những tiến bộ đã đạt được.

Tác động vào suy nghiệm ở hệ thống 1 để “thúc đẩy” bệnh nhân hướng đến tuân thủ tốt hơn

Trong quyển Nudge 2008, Richard Thaler (đoạt giải Nobel) và Cass Sunstein (đoạt giải Holberg) đã giải thích thêm về thuyết đưa ra quyết định, lý giải cho “chủ nghĩa gia trưởng tự do”.8 Họ cho rằng hầu hết chúng ta không phải là chuyên gia trong nhiều lĩnh vực ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của mình. Vì vậy, khi đứng trước một sự lựa chọn, chúng ta không thể tức thì đưa ra quyết định tốt nhất. Ví dụ, khi được cung cấp một lượng lớn các chính sách bảo hiểm y tế, làm thế nào để một người mới tham gia đưa ra được quyết định lựa chọn cái nào tốt nhất với nhu cầu của bản thân? Khi đó, chúng ta có thể giúp mọi người tối ưu hoá quyết định bằng cách trình bày các phương án theo cách mà phương án tốt nhất có khả năng được chọn, hay nói cách khác là “thúc đẩy” tính tự phát của hệ thống1 để đưa ra lựa chọn tốt nhất. Với tính ưu việt của suy nghiệm ở hệ thống 1 trong việc đưa ra quyết định, giá trị ảnh hưởng trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và điều trị bệnh của phương pháp này rất rõ ràng.

Các kỹ thuật thúc đẩy không có nghĩa là loại trừ sự lựa chọn. Nếu một người muốn cân nhắc đưa ra quyết định hợp lý và vận dụng hệ thống 2 để tư duy, người đó luôn có thể bỏ qua quy trình ở hệ thống 1. Theo Thaler và Sunstein giải thích, sự lựa chọn (mà hai tác giả gọi nó là kiến trúc chọn lựa) có thể được thực hiện theo cách mà người bệnh vẫn hoàn toàn tự do quyết định giữa các lựa chọn đó nhưng những lựa chọn có ích nhất thường xảy ra ở những người quyết định dựa vào hệ thống 1.

Xem xét ví dụ về việc hiến tạng. Nguồn tạng sẵn có ở bệnh viện có thể cứu sống nhiều người bệnh nhưng việc hiến tạng vẫn là một vấn đề nan giải trong nhiều xã hội, khiến cho nguồn tạng trở nên khan hiếm. Ở Áo, chính phủ giải quyết vấn đề này bằng cách áp dụng kỹ thuật thúc đẩy. Trong đó, mỗi công dân Áo được mặc định tự động sẽ hiến tạng (cho đến khi họ từ chối) nếu thoả mãn các tiêu chí hiến tạng. Người Áo có thể chọn không tham gia chương trình này nhưng thực tế cho thấy kết quả của sự thúc đẩy này là 99% người Áo đồng ý hiến tạng. Trong khi đó, nước Đức láng giềng không áp dụng sự đồng thuận hiến tạng mặc định này, tỷ lệ hiến tạng chỉ khoảng 12%.9 Nói cách khác, Áo có chương trình lựa chọn không tham gia trong khi Đức chỉ có chương trình lựa chọn tham gia. Áp dụng thiên kiến mặc định ở hệ thống 1 giúp người Áo tăng đáng kể nguồn hiến tạng sẵn có và cứu sống nhiều người hơn.

Các kỹ thuật thúc đẩy lựa chọn tham gia/không tham gia ngày càng được các cơ quan chức năng sử dụng để định hình chính sách cộng đồng. Những tiếp cận thúc đẩy được sử dụng để tuyển chọn người lao động vào chương trình trợ cấp cũng như các kế hoạch chăm sóc sức khoẻ, thậm chí để giảm tỷ lệ tử vong xảy ra trên đường cao tốc nguy hiểm. Một số quốc gia như Anh, Mỹ và Đức thậm chí đã từng tạo ra các đơn vị thúc đẩy trong chính phủ của họ.10

Suy nghiệm chi phối quyết định và hành vi của người bệnh, bao gồm quyết định khởi đầu điều trị và duy trì tuân thủ điều trị. Mặt khác, những suy nghiệm này cũng có thể ngăn cản bệnh nhân bắt đầu điều trị, đặc biệt nếu việc điều trị có nguy cơ gây ra tác động bất lợi cho người bệnh. Ví dụ, trong trường hợp phụ nữ được điều trị với liệu pháp nội tiết mãn kinh, họ có thể suy đoán về các nguy cơ liên quan. Những suy đoán này rất dễ hình thành trong tâm trí, chúng chi phối các suy nghiệm sẵn có và ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định có nên bắt đầu điều trị hay không.

Việc phá vỡ suy nghiệm sẵn có và thay thế nó bằng suy nghiệm khác (ví dụ cài đặt hình ảnh những phụ nữ đang sống vui vẻ, hạnh phúc trong quá trình điều trị mãn kinh vào suy nghiệm của bệnh nhân) cần có thời gian. Bác sĩ có thể chủ động thảo luận với bệnh nhân về các phương pháp điều trị mãn kinh hiện có ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tiền mãn kinh – mãn kinh để sớm hình thành những quan niệm phù hợp trong suy nghiệm của bệnh nhân. Đây là phương pháp thúc đẩy có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của phụ nữ.

Tài liệu tham khảo

  1. Jordanov P. Thinking fast? Slow down. Neurofied blog. December 2018. Accessed August 20, 2020. https://neurofied.com/thinking-fast-slow-down/.
  2. Kahneman D, Lazy Controller. In thinking, Fast and Slow. New York Farrar, Straus and Giroux. October 25, 2011:58-75. https://libro.eb20.net/Reader/rdr.aspx?b=714626. Accessed September 16, 2020.
  3. Kahneman D, Anchors. In thinking, Fast and Slow. New York Farrar, Straus and Giroux. October 25, 2011:184-199. https://libro.eb20.net/Reader/rdr.aspx?b=714626. Accessed September 16, 2020.
  4. Oussedik E, et al. JAMA Dermatology. 2017;153(9):932-934.
  5. Kahneman D, Availability, Emotion, Risk. In thinking, Fast and Slow. New York Farrar, Straus and Giroux. October 25, 2011:200-199. https://libro.eb20.net/Reader/rdr.aspx?b=714626. Accessed September 16, 2020.
  6. Linnemayr S, et al. AIDS & Behavior. 2015;19(11):2069-2075.
  7. Kahneman D, Answering easier questions. In thinking, Fast and Slow. New York Farrar, Straus and Giroux. October 25, 2011:151-165. https://libro.eb20.net/Reader/rdr.aspx?b=714626. Accessed September 16, 2020.
  8. Thaler R & Sunstein C, Introduction. In Nudge, improving decisions about health, wealth and happiness. New Haven, Yale University Press;2008:827. https://libro.eb20.net/Reader/rdr/aspx?b=1037044. Accessed September 16, 2020.
  9. Johnson E, Goldstein D. Medicine. Do defaults save lives? Science. 2003;302:1338-1339.
  10. Zeina A, “Nudge units” – where they came from and what they can do. October 2017. Blog, World Bank. Accessed September 16, 2020. https://Blogs.worldbank.org/developmenttalk/nudge-units-where-they-came-and-what-they-can-do.