Mô hình xuyên lý thuyết và các giai đoạn tuân thủ của bệnh nhân

Thông điệp chính

• Mô hình xuyên lý thuyết (TTM) đề xuất một cách tiếp cận từng bước để thay đổi các hành vi sức khỏe một cách hiệu quả.
• TTM có thể giúp các nhân viên y tế đánh giá niềm tin và hành vi ảnh hưởng đến việc điều trị của bệnh nhân và đưa ra sự hỗ trợ cần thiết để thúc đẩy sự thay đổi tích cực
• TTM là một trong những mô hình hành vi sức khỏe được sử dụng rộng rãi nhất và đã được chứng minh là đem lại tác động tích cực đến các hành vi khác nhau bao gồm tuân thủ điều trị

Mô hình xuyên lý thuyết: Một công cụ đem lại sự thay đổi tích cực

Các hình thức không tuân thủ điều trị bệnh tim mạch (CVD) có liên quan đến việc chi phí y tế tăng và kết quả xấu hơn.1,2 Trong khi hầu hết dữ liệu về sự tác động của việc không tuân thủ đến từ các nước công nghiệp hoá, hầu hết những người mắc bệnh tim mạch sống ở các nước có mức thu nhập trung bình và thấp, nơi vấn đề tuân thủ và hậu quả của chúng ngày càng trầm trọng hơn do điều kiện kinh tế.3 Ở các bài trước, chúng ta đã xem xét một số thuyết hành vi để hiểu cơ chế của hành vi tuân thủ điều trị của bệnh nhân. Các thuyết khác nhau bao gồm sáu quan điểm lý thuyết: y sinh, hành vi, giao tiếp, nhận thức, tự điều chỉnh và các giai đoạn.4 Các quan điểm nhận thức và giai đoạn là những thuyết được thảo luận thường xuyên nhất trong các tài liệu học thuật. Các thuyết nhận thức như Thuyết về Hành vi hoạch định (TPB), đã được thảo luận trước đây trong loạt bài này, xem xét cách thái độ và niềm tin thúc đẩy hành vi. Các thuyết dựa trên giai đoạn cho rằng con người học hỏi, phát triển và thay đổi hành vi của họ theo các bước riêng biệt. Các mô hình nhận thức và dựa trên giai đoạn có thể được sử dụng cùng nhau một cách hiệu quả; thuyết nhận thức cung cấp cái nhìn sâu sắc về lý do tại sao con người thay đổi hành vi của họ và quan điểm dựa trên giai đoạn tạo ra những hiểu biết sâu sắc về cách thực hiện sự thay đổi. Mô Hình Xuyên Lý Thuyết (TTM), còn được gọi là mô hình Các Giai Đoạn Thay đổi Xuyên Lý Thuyết, là mô hình giai đoạn nổi bật và được áp dụng rộng rãi nhất.4 Nó khác với nhiều mô hình hành vi nổi bật khác; và được thiết kế đặc biệt không chỉ để mô tả quá trình thay đổi mà còn để tạo điều kiện thay đổi hướng tới các hành động lành mạnh hơn.5 TTM đã được áp dụng cho một loạt các hành vi sức khỏe, nó có thể dễ dàng được điều chỉnh để đánh giá sự tuân thủ điều trị cho bệnh nhân CVD và cung cấp các phản hồi cá nhân hóa cho bệnh nhân để cải thiện việc tuân thủ điều trị cũng như kết quả tổng thể.

TTM mô tả sự tuân thủ dựa trên sự sẵn sàng thay đổi của một cá nhân

Phiên bản đầu tiên của TTM được đề xuất vào những năm 1980 bởi James Prochaska và Carlo DiClemente, những người tập trung nghiên cứu về chứng nghiện nicotine; kể từ đó, nó đã được áp dụng cho một số hành vi sức khỏe khác nhau.4, 6, 8

TTM bao gồm hai thành phần chính: các giai đoạn thay đổicác quá trình thay đổi. Các giai đoạn thay đổi là cốt lõi của mô hình và mô tả sự sẵn sàng cũng như sự sẵn lòng thực sự thay đổi của một cá nhân theo năm bước riêng biệt. Áp dụng các giai đoạn này cho bệnh nhân tăng huyết áp có thể giống như sau:

  • Giai đoạn 1: Tiền dự định. Bệnh nhân không tuân thủ phác đồ điều trị theo chỉ định của bác sĩ và không thực sự xem xét thay đổi hành vi của mình vì không nhận thức được lý do thay đổi.4
  • Giai đoạn 2: Dự định. Bệnh nhân nhận thức được lý do để thay đổi hành vi của mình và đang dự định nhưng hiện tại không nỗ lực để thay đổi.

Bất kỳ sự chuẩn bị nào cho sự thay đổi vào thời điểm này hoàn toàn là tinh thần/cảm xúc hơn là thực tế. Theo Prochaska, giai đoạn này mô tả những cá nhân có kế hoạch thay đổi hành vi của họ vào một thời điểm nào đó trong sáu tháng tới nhưng không phải trong 30 ngày tới.

  • Giai đoạn 3: Chuẩn bị. Bệnh nhân có kế hoạch thay đổi hành vi tuân thủ điều trị của mình trong vòng 30 ngày và đang tích cực chuẩn bị để thay đổi; ví dụ, anh ta có thể đang cố gắng uống thuốc theo chỉ định, nhưng vẫn không thường xuyên.
  • Giai đoạn 4: Hành động. Bệnh nhân đã thay đổi hành vi và đang theo phác đồ điều trị theo chỉ định nhưng vẫn chưa đến mốc sáu tháng kể từ khi thay đổi. Hành vi mới vẫn đòi hỏi sự nỗ lực.
  • Giai đoạn 5: Duy trì. Bệnh nhân đã dùng thuốc theo chỉ định và tuân theo các khuyến cáo của bác sĩ trong ít nhất sáu tháng.6 Việc này đã trở thành thói quen và không còn đòi hỏi nhiều nỗ lực có ý thức nữa.

Tiến trình qua các giai đoạn được biểu diễn ở đây là tuyến tính, nhưng trong ứng dụng, nó có thể theo chu kỳ. Do bản chất của sự thay đổi hành vi, có khả năng các cá nhân thoái lui cũng như tiến bộ. Ví dụ, những bệnh nhân cao huyết áp trong giai đoạn Hành động đã tuân thủ điều trị trong một vài tháng có thể trở nên không tuân thủ và quay trở lại giai đoạn Chuẩn bị hoặc thậm chí là giai đoạn Dự định.6 Tuy nhiên, họ thường không quay trở lại Giai đoạn Tiền dự định vì điều này có nghĩa là họ đã quên lý do tại sao họ làm theo các khuyến cáo lúc ban đầu. Những bệnh nhân có hành vi thoái lui thường dễ dàng trở lại đúng hướng.

TTM là một công cụ được sử dụng rộng rãi và là một cải tiến so với các mô hình sức khoẻ trước đây như Thuyết về Hành Vi Hoạch Định và Mô Hình Hành Vi Sức Khoẻ ở chỗ nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc tạo thuận lợi thực tế cho việc thay đổi hành vi.

Các quá trình thay đổi tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn tiếp theo và được phân loại là theo kinh nghiệm hoặc theo hành vi.

  • Các quá trình theo kinh nghiệm chủ yếu hữu ích trong các giai đoạn đầu của thay đổi, chẳng hạn như Dự định. Các quá trình này có thể bao gồm, ví dụ, nâng cao ý thức, tức là bệnh nhân ngày càng nhận ra rằng họ được lợi từ việc điều trị của mình, vì nó kiểm soát các triệu chứng tăng huyết áp của họ.
  • Các quá trình theo hành vi được sử dụng chủ yếu trong các giai đoạn sau. Chúng bao gồm kiểm soát kích thích, ví dụ: giải quyết các kích thích gây ra hành vi không mong muốn và giúp đỡ các mối quan hệ, tức là tìm kiếm những người quan trọng đối với bệnh nhân và sẽ giúp họ tuân thủ.4

TTM giúp nhân viên y tế đánh giá sự tuân thủ và xác định phản hồi hữu ích

TTM có thể đóng vai trò như một công cụ hữu ích cho các nhân viên y tế nhằm đánh giá sự tuân thủ của bệnh nhân và cung cấp phản hồi hoặc đề xuất hữu ích khi cần thiết. Ví dụ, hãy xem xét một bệnh nhân tăng huyết áp điển hình. Tại cuộc hẹn, bác sĩ hỏi một số câu hỏi mục tiêu liên quan đến điều trị của họ, bao gồm:

  • Bệnh nhân tuân thủ nghiêm ngặt chế độ điều trị và các khuyến cáo về lối sống như thế nào?
  • Bệnh nhân có cân nhắc thay đổi hành vi của mình không?
  • Bệnh nhân có hiểu được lợi ích của điều trị và rủi ro của việc không tuân thủ điều trị không?

Câu trả lời của bệnh nhân cho thấy rằng anh ta không tuân thủ nghiêm ngặt các khuyến cáo điều trị và không nhận thức rằng hành vi này là có vấn đề. Vì các triệu chứng tăng huyết áp không biểu hiện nên lợi ích của việc tuân thủ điều trị không rõ ràng. Sau đó, bác sĩ có thể sử dụng Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe để hướng dẫn buổi thảo luận và cung cấp thông tin về nguy cơ tăng huyết áp không kiểm soát cũng như lợi ích của việc tuân theo phác đồ điều trị. Bệnh nhân, hiện đã nhận thức được lợi ích của việc tuân thủ, có thể cân nhắc việc thay đổi hành vi của mình và chuyển sang giai đoạn Dự Định thông qua quá trình nâng cao ý thức này.

TTM là một cách tiếp cận hữu ích và có thể thực hiện được nhằm cải thiện sự tuân thủ

TTM là một công cụ được sử dụng rộng rãi và có thể bổ sung cho các mô hình sức khỏe khác như TPB và Mô Hình Hành Vi Sức Khỏe bằng cách tạo điều kiện cho các thay đổi hành vi và theo dõi tiến trình qua các giai đoạn. Nó có thể đặc biệt hữu ích trong việc thông báo cách thức cung cấp thông tin tuân thủ cho bệnh nhân và ảnh hưởng đến việc thiết kế các can thiệp tuân thủ. TTM đã được sử dụng thành công để giải quyết tình trạng không tuân thủ điều trị hạ huyết áp và hạ lipid máu7; các nghiên cứu chứng minh rằng bệnh nhân đáp ứng tốt với các phản hồi cá nhân do TTM cung cấp.6 Tuy nhiên, các can thiệp dựa trên TTM không phải lúc nào cũng hiệu quả hơn các phương pháp tiếp cận được thiết kế hợp lý khác, 5 và nghiên cứu hành vi sức khỏe ngày càng ưu tiên các mô hình hành vi gần đây hơn, chẳng hạn như COM-B , và những tiến triển khác trong thuyết hành vi sẽ được thảo luận trong các bài viết khác. Những mô hình này miễn phí và cung cấp những nhìn nhận quan trọng về hành trình của bệnh nhân.

Tài liệu tham khảo:

  1. Shalini Lynch (2019). “Adherence to drug treatment,” MSD Manual Consumer Version, August 2019. https://www.msdmanuals.com/home/drugs/factors-affecting-response-to-drugs/adherence-to-drug-treatment
  2. Ian M. Kronish & Ye Siqin (2013). “Adherence to cardiovascular medications: Lessons learned and future directions,” Progress in Cardiovascular Diseases, (55):6, pp. 590–600. https://doi:10.1016/j.pcad.2013.02.001
  3. Tracey-Lea Laba et al. (2013). “Strategies to improve adherence to medications for cardiovascular diseases in socioeconomically disadvantaged populations: A systematic review,” International Journal of Cardiology, (167):6, pp. 2430–2440. https://doi:10.1016/j.ijcard.2013.01.049
  4. Lamyae Sardi et al. (2019). “Applying trans-theoretical model for blood donation among Spanish adults: A cross-sectional study.” BMC Public Health, (19):1, p. 1724. https://doi:10.1186/s12889-019-8046-9
  5. David Taylor et al. (2006). “A review of the use of the Health Belief Model (HBM), the Theory of Reasoned Action (TRA), the Theory of Planned Behaviour (TPB) and the Trans-Theoretical Model (TTM) to study and predict health related behaviour change” London, UK: National Institute for Health and Clinical Excellence, pp. 1–215.
  6. Sara Johnson et al. (2006). “Efficacy of a transtheoretical model-based expert system for antihypertensive adherence,” Disease Management, (9):5, pp. 291–301. https://doi: 10.1089/dis.2006.9.291
  7. Sara Johnson et al. (2006). “Transtheoretical Model intervention for adherence to lipid-lowering drugs,” Disease Management, (9):2, pp. 102 –114. https://doi.org/10.1089/dis.2006.9.102
  8. James Prochaska & Carlo C. DiClemente, (1983). “Stages and processes of self-change of smoking: Toward an integrative model of change,” Journal of Consulting and Clinical Psychology, (51):3, p. 390. https://doi: 10.1037//0022-006x.51.3.390