Nắm bắt thái độ của người bệnh: Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe
Thông điệp chính
- Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe (Health Belief Model – HBM) là một mô hình giúp hiểu được niềm tin của bệnh nhân về vấn đề sức khỏe của họ
- HBM có thể được sử dụng để xác định những hành vi gây tổn hại đến người bệnh do sự kém hiểu biết về tình trạng bệnh hoặc việc điều trị bệnh
- HBM có thể được sử dụng để xây dựng sự tương tác với người bệnh nhằm nâng cao hiểu biết của họ về các khuyến cáo về điều trị và lối sống
Mọi người nghĩ như thế nào về sức khoẻ của họ?
Tại sao mọi người thực hiện hành vi mà họ biết là gây bất lợi cho sức khoẻ của họ? Với sự hình thành chính sách mới trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng sau thế chiến thứ 2, các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ bắt đầu xem xét những hướng nghiên cứu mới để nắm bắt được hành vi của người bệnh. Những truy vấn về hành vi của người bệnh là trọng tâm đầu tiên của hệ thống, dựa vào thuyết cơ bản nghiên cứu hành vi sức khoẻ và sự phát triển của Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe (HBM) vào đầu những năm 1950.
Hai yếu tố then chốt trong việc nhận biết tình trạng sức khoẻ của bất cứ cá nhân nào là sự nhận thức về rủi ro và độ nhạy cảm của họ đối với những hậu quả
Tiền đề của Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe (HBM)
Mô Hình Niềm Tin Sức Khoẻ hình thành từ công việc của những người sáng lập về lĩnh vực tâm lý xã hội đầu tiên, chẳng hạn như Kurt Lewin, người muốn tìm hiểu cách tốt nhất để dẫn dắt lĩnh vực mới về chính sách và truyền thông y tế công cộng. Những phiên bản đầu tiên của HBM dựa vào nghiên cứu điều tra về thái độ đối với việc kiểm tra sức khoẻ, được đưa ra vào những năm 19501. Vẫn sử dụng phổ biến cho đến ngày hôm nay, HBM đã được chính thức hoá bởi Roenstock vào năm 1974,2 và mô hình này là nền tảng của hầu hết các mô hình tìm hiểu về hành vi sức khoẻ con người.
Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe mô tả việc đưa ra quyết định về sức khoẻ bằng những phân tích về lợi ích-chi phí, hoặc theo thuật ngữ khoa học xã hội, một mô hình “giá trị-kỳ vọng”. Tức là người ta xem xét giá trị của việc thay đổi hành vi liên quan đến nhận thức về lợi ích hoặc sự giảm thiểu rủi ro và đem so sánh với nhận thức về những gì phải bỏ ra, chẳng hạn như: sự nỗ lực, thời gian, tiền bạc và những hậu quả tiêu cực khác trong cuộc sống của họ. Nếu nhận thức về các lợi ích từ việc thực hiện một hành vi mới vượt xa những gì phải bỏ ra, thì giá trị kỳ vọng đủ để thúc đẩy hành động hoặc làm thay đổi hành vi, ví dụ: chấp nhận chụp X-quang, bỏ hút thuốc lá, hoặc tuân thủ kế hoạch điều trị.
Trong khi cách tiếp cận việc ra quyết định hợp lý của HBM tạo nên ý nghĩa trực quan, các nhà nghiên cứu đã tiến xa hơn và đưa ra phân tích liên quan đến ảnh hưởng của niềm tin sức khoẻ lên hành vi của người bệnh, họ đã xác định rằng có hai vấn đề tách biệt: vấn đề liên quan đến tình trạng sức khỏe hoặc chứng bệnh và vấn đề liên quan đến việc điều trị.
Phần 1: Tìm hiểu về tình trạng sức khỏe
Theo HBM, hai yếu tố then chốt trong việc hiểu về tình trạng sức khỏe của bất cứ cá nhân nào là nhận thức mức độ nghiêm trọng về hậu quả tiềm ẩn của những vấn đề sức khỏe và tính nhạy cảm của họ đối với những hậu quả đó. Ví dụ, khi một người cân nhắc xem có nên từ bỏ thuốc lá hay không, trước tiên người đó sẽ nhận định những hậu quả nghiêm trọng của việc hút thuốc lá, chẳng hạn như: mắc bệnh ung thư phổi hoặc tử vong sớm, và sau đó xác định khả năng mà những hậu quả này xảy ra.
Điểm mấu chốt quan trọng cần ghi nhớ ở đây chính là nhận thức của người bệnh cả về mức độ nghiêm trọng và tính nhạy cảm – không nhất thiết phải là những gì được đề xuất từ nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học. Ví dụ, về mặt khách quan, ngay cả khi tử vong sớm là vấn đề khá nghiêm trọng, không phải ai cũng vì sợ chết sớm mà có động lực để thay đổi hành vi của mình. Đối với những người 30 tuổi đang hút thuốc lá, khả năng chết ở tuổi 75 thay vì tuổi 82 dường như không đặc biệt nghiêm trọng, và nếu họ có người thân hút thuốc trong suốt cuộc đời của họ và chết ở tuổi 90 bởi nguyên nhân khác, thì họ có thể giảm thiểu hoặc loại bỏ tính nhạy cảm của mình đối với việc tử vong sớm do thuốc lá gây ra. (Đây là một ví dụ của suy nghiệm có sẵn mà chúng ta đã thảo luận ở bài viết trước “Suy nghiệm và ra quyết định: cái nào có ảnh hưởng đến tính tuân thủ của người mắc bệnh chóng mặt?“). Suy cho cùng, những cân nhắc về mức độ nghiêm trọng và tính nhạy cảm tạo ra nhận thức những rủi ro về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân hoặc những hành vi hiện tại mà họ đang có, ví dụ như hút thuốc, không làm xét nghiệm, không uống thuốc…
Phần 2: Tìm hiểu về điều trị
Phần còn lại cần phân tích là quan điểm của người bệnh về những thay đổi hành vi cần thiết được đề nghị để quản lý tình trạng sức khỏe của họ. Điều này có thể được chia thành nhận thức những rào cản đối với hành vi mới và nhận thức những lợi ích về việc điều trị.
Trước khi ngừng hút thuốc lá, những người tầm tuổi 30 sẽ phải xác định xem liệu bỏ thuốc lá có làm giảm khả năng tử vong sớm hay không hoặc nếu lợi ích đó có còn giá trị đối với họ ngay khi họ điều chỉnh hành vi của họ. Và trên phương diện rào cản, nhận thức khó bỏ thuốc lá là phổ biến, và có thể có những nỗi sợ hãi khác giống như tăng cân ngăn chặn sự thay đổi trong hành vi.
Minh họa Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe
Sự kết hợp nhận thức và niềm tin của người bệnh sẽ xác định xem liệu sự thay đổi hành vi hiện tại có giá trị theo hướng có lợi cho hành vi hoặc phương pháp điều trị được đề xuất hay không.
Do đó, mô hình được mô tả như sau:

Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe và tuân thủ trong điều trị chóng mặt
Mô hình Niềm tin Sức khỏe đã được nghiên cứu cụ thể về hành vi của bệnh nhân mắc các bệnh lý mạn tính, dự đoán hành vi của bệnh nhân và cung cấp hướng dẫn để giáo dục bệnh nhân hiệu quả. Không có nghiên cứu nào kiểm tra tính ứng dụng của nó cho những bệnh nhân bị chóng mặt, nhưng một số bệnh lý đã được nghiên cứu chặt chẽ cho thấy các động lực hành vi tương tự. Ví dụ, như đã thảo luận trong các bài viết trước, đau mạn tính, động kinh nhẹ và đa xơ cứng nhẹ là tất cả các tình trạng mà các triệu chứng, mặc dù rất phiền phức, lại có đặc tính diễn tiến theo từng đợt. Mô hình HBM đã chứng minh giá trị của nó trong việc hỗ trợ các chuyên gia y tế hiểu hành vi bệnh nhân và hướng dẫn thay đổi hành vi hiệu quả đối với những bệnh lý trên.3,4
Mô hình Niềm tin Sức khoẻ đã đặc biệt thành công trong lĩnh vực nội thần kinh để giúp bệnh nhân hiểu rõ tình trạng, phương pháp điều trị và thay đổi hành vi của họ. Mô hình này được chứng minh là một phương pháp hữu ích để thiết kế các can thiệp và là thước đo thành công trong nhiều lĩnh vực.
Tác động đến người bệnh sử dụng Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe
HBM cho phép các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ truy cập và đánh giá hành vi tiềm ẩn của người bệnh bằng cách phân tích niềm tin của họ. Dựa theo HBM, nhân viên chăm sóc sức khoẻ nên:
• Đánh giá nhận thức của bệnh nhân về hậu quả tiềm ẩn của bệnh lý.
• Hãy chắc chắn người bệnh biết rằng:
o (1) họ dễ dàng gặp những hậu quả đó, và
o (2) họ có khả năng kiểm soát kết quả nếu tuân theo phương pháp điều trị
• Đánh giá nhận thức của người bệnh về lợi ích của việc điều trị để đảm bảo rằng họ hoàn toàn thấu hiểu được những lợi ích đó.
• Hãy chắc chắn rằng người bệnh có những hiểu biết thực tế về tác dụng phụ để đảm bảo rằng nếu tác dụng phụ biểu hiện, chúng không làm suy giảm giá trị nhận thức của việc thay đổi hành vi.
Sử dụng Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe: Một ví dụ
Xem xét trường hợp một bệnh nhân 30 tuổi bị chóng mặt. Tính chất từng đợt của bệnh làm giảm nhận thức của bệnh nhân về nguy cơ, mức độ nghiêm trọng và tính nhạy cảm, độ tuổi tương đối trẻ của bệnh nhân tạo ra một rào cản do khó chấp nhận tình trạng mạn tính của bệnh. Việc kéo dài các đợt bệnh không thường xuyên mặc dù đã tuân thủ điều trị khiến bệnh nhân bỏ qua tác dụng tích cực của thuốc và đánh giá thấp lợi ích của việc tuân thủ kế hoạch điều trị của họ. Điều này dẫn đến việc không tuân thủ.
Đây là một tình trạng phổ biến và có thể gặp trong các bệnh lý thần kinh khác ví dụ như bệnh đa xơ cứng tái phát mức độ nhẹ hoặc động kinh mức độ nhẹ.
Phương pháp tiếp cận của bác sĩ ảnh hưởng đến sự hiểu biết của bệnh nhân có thể tác động đáng kể đến hành vi của họ. Bằng cách đặt những câu hỏi một cách cẩn trọng chẳng hạn như những câu đã nêu trên, chuyên gia y tế có thể đảm bảo rằng bệnh nhân có hiểu biết cần thiết để thay đổi hành vi và tuân thủ điều trị. Những lời giải thích thô sơ về bệnh lý và điều trị, hoặc tệ hơn, một giả định rằng bệnh nhân sẽ đơn giản làm như họ được bảo, làm giảm khả năng thực hiện hành vi cần thiết. Kết hợp HBM có thể giúp chuyên gia y tế thiết kế hiệu quả các cuộc trò chuyện thiết yếu để giúp bệnh nhân áp dụng những hành vi lành mạnh và tuân thủ điều trị.
Kết luận
Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe có một vài hạn chế. Mô hình này tin rằng người bệnh sẽ thực hiện hành vi hợp lý, điều mà không phải lúc nào cũng vậy. HBM cũng không giải quyết thỏa đáng tính thực tế rằng nhiều hành vi thay đổi trong một kế hoạch điều trị, như tuân thủ điều trị bằng thuốc, chế độ ăn, và luyện tập, không phải là việc giải quyết một lần, mà là một loạt các việc giải quyết hàng ngày phải được thực hiện trong một khoảng thời gian dài, thường là trong nhiều năm.
Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe là một khởi đầu hoàn hảo, tuy nhiên, các mô hình hành vi mới hơn cũng đã xuất hiện từ sự phát triển của HBM nhằm giải quyết cơ chế phức tạp trong nhận thức của con người, giúp hỗ trợ người bệnh tuân thủ điều trị5. Về phần hạn chế của nó, Mô Hình Niềm Tin Sức Khỏe chỉ đưa ra được những lý lẽ mơ hồ đối với việc đánh giá khả năng thay đổi hành vi của người bệnh, hay còn được biết đến như Động lực của bản thân (self-efficacy). Động lực của bản thân và những nền tảng tâm lý chi tiết hơn giải đáp câu hỏi về động lực sức khoẻ tổng quan đã dẫn đến sự hình thành của lý thuyết động lực bảo vệ,6 và mở ra các khuôn khổ bổ sung sẽ được trình bày ở những bài viết tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
- Godfrey M. Hochbaum GM (1956). “Why people seek diagnostic x-rays.” Public Health Reports, (71):4, pp. 377–380.
- Irwin M. Rosenstock (1974). “The Health Belief Model and preventive health behavior,” Health Education Monographs. (2):4, pp. 354–386. https://doi:10.1177/109019817400200405
- Juyoung Park, Russell Clement, Nancy Hooyman, Katia Cavalie, & Joseph Ouslander (2015). “Factor structure of the arthritis-related health belief instrument in ethnically diverse community-dwelling older adults with chronic pain,” Journal of Community Health, (40):1, pp. 73–81. http://doi:10.1007/s10900-014-9898-7
- Aaron P. Turner, Daniel R. Kivlahan, Alicia P. Sloan, & Jodie K. Haselkorn (2007). “Predicting ongoing adherence to disease modifying therapies in multiple sclerosis: Utility of the health beliefs model,” Multiple Sclerosis Journal, (13):9, pp. 1146–1152. https://doi:10.1177/1352458507078911
- John Weinman, Keith J. Petrie, Rona Moss-Morris, & Rob Horne (1996). “The illness perception questionnaire: A new method for assessing the cognitive representation of illness,” Psychology and Health, (11):3, pp. 431–445.
- Steven Prentice-Dunn & Ronald W. Rogers (1986). “Protection Motivation Theory and preventive health: Beyond the Health Belief Model,” Health Education Research, (1):3, pp. 153–161. https://doi:10.1093/her/1.3.153